Bao nhiêu ngõ chợ?

Giữa những nhịp sống hiện đại ngày càng hối hả, chợ — với người thành phố — không chỉ là nơi mua bán. Đó còn là nơi ta chạm vào ký ức, vào những sắc màu đời thường, vừa thân quen vừa mộc mạc. Có lẽ vì thế mà mỗi người đều mang trong lòng mình ít nhiều hình ảnh về một “ngõ chợ” – nơi bắt đầu cho bao câu chuyện giản dị mà ấm áp…

Chẳng hiểu sao, mỗi khi nhắc đến những vùng đất mình từng sống, điều tôi nhớ đầu tiên là… chợ. Suốt mười năm ở Hà Nội, tôi từng lòng vòng không biết bao nhiêu ngõ chợ. Hồi còn trọ ở phường Láng Hạ, sáng nào tôi cũng đi chợ cóc trong ngõ Thái Thịnh. Bây giờ, nhắm mắt lại, tôi vẫn mường tượng ra gốc cây hoa giấy, bức tường cũ mốc, và những chiếc cột điện đứng chiếm cả lối đi. Suốt dọc con ngõ là những dòng chữ: “Khoan cắt bê tông”, “Cho vay không thế chấp”, “Lắp đặt internet”… Có khi đang đi chợ, tôi phải dừng lại vì thấy tờ thông báo tìm người thân: “Khi đi có mặc áo kẻ caro, đội mũ lưỡi trai…”. Tôi nhìn vào bức ảnh dán trên tường, cố lục tìm trong trí nhớ xem mình có từng gặp người như thế bao giờ. Đến lúc dừng lại ở hàng chị bán rau, hình ảnh về một người đi lạc vẫn còn bám riết trong tâm trí.

Chợ sớm đông vui lắm. Cua bò lổm ngổm trong chậu, tôm nhảy tanh tách trong thùng. Hàng quà kế bên có bánh cuốn nóng hổi, vừa thổi vừa ăn; bánh gio đỏ như mặt trời, cắn một miếng là vị thanh mát tràn khắp môi miệng. Lần nào tôi cũng sà xuống hàng chị Lựu để mua ít hoa trái quê nhà. Thúng hàng của chị thay đổi mỗi ngày, và cũng chẳng có gì nhiều nhặn. Ai đến sớm thì còn, đi muộn một chút thì thúng hàng đã hết. Vài quả thị thơm, một rổ ổi đào, những quả vú sữa trồng trên đất cằn – nhỏ như cổ tay trẻ con – nhưng thơm và ngọt lịm. Có khi tôi gặp may khi mua được của chị một rổ ổi đá — giống ổi bé xinh mà tôi ngỡ chỉ có trong ký ức tuổi thơ, những tháng năm bố trồng một cây ở sau nhà.

Trong suốt bốn năm sống ở khu phố đó, tôi từng có lần được ăn món xôi sắn thơm nức, cắt thành từng miếng nhỏ. Xôi chị để trong rá, đậy tờ lá chuối lên trên. Chỉ cần ngửi thôi đã thấy giống hệt hương vị ngày xưa mẹ thường nấu. Góc chợ ấy, đối với tôi, là cả một vùng ký ức quá đỗi thân thương…

Tôi chuyển đến nhà trọ khác, lại được hòa mình trong đời sống của một ngõ chợ mới. Ở thành phố, trọ vài năm có khi không biết mặt hàng xóm xung quanh. Nhưng đến nơi nào, ngay hôm sau, tôi cũng phải tìm cho mình một “mối ruột”. Rau phải sạch, thịt phải ngon, người bán hàng phải xởi lởi, dễ tính, giá cả phải chăng. Thật ra, tìm được “mối ruột” khó lắm. Thời buổi kim tiền, chỉ vì ham vài đồng lợi nhuận mà trong rau có thuốc, trong thịt có chất tăng trưởng, trong bụng con cá, con gà lại có thêm chút lòng tham. Thế mới có chuyện: trong bụng mười con mực ống, lấy ra được… bảy con cá nục; trong diều con gà bị nhồi căng cứng toàn ngô hạt cho nặng cân hơn.

Ra chợ tìm mối ruột cũng giống như đi tìm bạn — chơi với nhau nhiều năm mới biết người ta có dối mình không. Một hôm, vì tiện tay đặt túi thịt lên cân, tôi mới biết bao lâu nay mình đã tin sai người. Cô hàng thịt mà tôi vẫn nghĩ là xởi lởi — thử cân lại, lần nào cũng thiếu. Niềm tin với một người ở chợ vơi đi khiến tôi buồn rất lâu. Sáng đi qua nhau, không dừng lại mua hàng, không hỏi han dăm ba câu như mọi khi — có lẽ cả hai đều cảm thấy bẽ bàng. Từ đó, tôi rất ít khi cân lại đồ vừa mua ở chợ. Cũng ít dần đi sự dễ dãi, cả tin. Bạn tôi nói: “Muốn tìm tình người thì đi nơi khác. Chợ là nơi bán mua. Tình người là thứ đắt đỏ nhất”. Nhưng chẳng hiểu sao… tôi vẫn đi tìm.

Ngõ chợ đâu chỉ rôm rả chuyện bán mua. Khi con cá, củ rau đã đầy làn, người ta bắt đầu xúm vào tám chuyện. Chuyện bà bán bún mới bỏ quách ông chồng cờ bạc. Chuyện chồng chị bán thịt bò hình như mới được trả lại quyền công dân. Người ta lại thì thào: “Ra rồi lại vào… nghe nói toàn dính dáng vào buôn hàng lậu”. Ồn ào nhất có lẽ là vụ nhà bà bán dưa bị dân xã hội đen đến xiết nợ giữa đêm. Sáng hôm sau, con ngõ tắc nghẽn vì đám bảo kê đứng chật đường, cửa nhà bị khóa, hai mẹ con bà bán dưa mắc võng nằm dưới gốc cây, chờ chính quyền đến giải quyết. Tôi đi qua, nhìn cảnh họ im lặng, cặm cụi ăn cơm ngoài trời — khi những hạt mưa còn đọng trên tán lá sau cơn gió, lòng tôi bỗng se sắt vì thương xót cho những phận người. Mới hôm qua thôi, tôi còn thấy bà thảnh thơi ngồi đan khăn ấm. Cảnh tượng xiết nợ khiến tôi nghĩ đến người thân của mình — những người cũng từng đi qua nỗi cơ cực đó. Nhiều đêm, tôi mất ngủ vì nghĩ đến những biến cố có thể xảy ra. Nên khi nhìn thấy hoạn nạn của người dưng, tôi như gặp lại một nỗi bất an xưa cũ. Thành ra, tôi tránh đi vào ngõ chợ, để tim mình thôi xót xa.

Đời tôi từng đi qua nhiều ngõ chợ khác trên đất nước này. Nhưng chẳng hiểu sao, lại luôn nhớ về ngõ chợ và con người Hà Nội. Nhớ đàn gà tre gáy te te giữa phố, nhặt gạo giữa ngõ chợ đông người. Chủ của chúng là bà cụ bán cà muối, nhà cạnh cô bán miến rong ngon. Bà cụ ở một mình, không cháu con, nhưng gà một đàn, chó mấy con, mèo theo chân ríu rít. Cảnh tượng bình yên ấy cũng có khi trở về… trong một giấc trưa.

Có lẽ ai từng sống ở Hà Nội cũng ít nhiều đi qua những ngõ chợ như thế – nơi buổi sáng bắt đầu bằng tiếng rao hàng, nơi tình người len lỏi trong những câu chào, những lần mặc cả, hay chỉ đơn giản là một cái gật đầu thân quen. Ngõ chợ — nơi tưởng chỉ có chuyện mua bán, mà hóa ra lại chứa đựng bao điều dung dị, thương mến, và cả những nỗi xót xa của phận người.

Đôi khi, giữa những bộn bề cuộc sống, chỉ cần một mùi hương hoa, một tiếng rao quen, hay bóng dáng bà cụ bán cà muối...cũng đủ khiến lòng ta chùng lại, nhớ về một góc nhỏ thân thương của thành phố này.

Huyền Trang

Bài viết hay? Hãy đánh giá bài viết

  • Quan tâm nhiều nhất
  • Mới nhất

15 trả lời

15 trả lời