Thương quê mùa lũ
Mỗi mùa bão lũ về, giữa phố thị ồn ào, có những người con xa quê vẫn nặng trĩu một nỗi niềm, vẫn lắng nghe từng bản tin bão lũ để lòng dấy lên bao thương nhớ, xót xa.
Từ ký ức tuổi thơ cho đến những tháng ngày trưởng thành, hình ảnh cha mẹ kiên cường, xóm làng đùm bọc nhau giữa gian nan… đã trở thành mạch nguồn ký ức, thành tình thương quê da diết không thể nào phai.
Mỗi khi trời trở gió, giữa phố xá đông đúc này, tim tôi lại nhói lên một nhịp. Tôi sinh ra từ miền đất gió Lào cát trắng, nơi bốn mùa không năm nào yên ả trọn vẹn. Tháng Bảy, tháng Tám, dường như cả bầu trời nặng trĩu những khối mây xám chờ chực xé toạc xuống miền quê nghèo ấy. Tin bão đến, mưa lớn, nước sông dâng, đài báo dồn dập cập nhật tình hình. Tôi ngồi nơi đây, cách quê hàng trăm cây số, mà lòng cứ như có một bàn tay bóp chặt, thít lại từng nhịp thở. Mẹ gọi điện, giọng quê miền Trung nằng nặng, vẫn cố giữ vẻ rổn rảng: “Không có can chi mô nờ, con cứ yên tâm. Ở nhà mọi chuyện vẫn ổn”.
Ổn sao được? Tôi biết, ở quê, chỉ cần con nước lên cao hơn một gang tay, bao công sức cả năm trời của mẹ cha lại trôi tuột theo dòng lũ. Gió thêm một trận quét qua, biết bao mái nhà lại nghiêng ngả. Thế nhưng mẹ vẫn quen nói thế, như thể chỉ cần giấu đi sự thật, con cái xa nhà sẽ bớt một phần day dứt. Mà thật lòng, làm sao tôi yên tâm được? Trong ký ức tôi vẫn còn vẹn nguyên những mùa bão của tuổi thơ. Lúc ấy, cứ nghe đài báo bão là cha lại hối hả dựng thêm vài cọc tre, kéo căng tấm bạt nilon bốn góc, làm mái che cho gian nhà nhỏ. Cửa sổ được chèn chặt bằng hai thanh gỗ to, dây dù thắt ngang hông cửa, gió giật mấy cũng khó lòng bật tung. Đêm bão, căn nhà rung lên bần bật. Gió rít từng hồi, mái tôn va đập uỳnh uỳnh như trống trận. Thỉnh thoảng, cát ngoài vườn bị gió cuốn tạt qua, chưa kịp nhắm mắt thì đã hứng trọn. Cha cười xòa: “Mấy đứa nhắm mắt ngủ đi, mai sáng là tan bão, đừng xộn xạo kẻo cát bay vô mắt”.
Bão tan. Vườn mía đổ rạp, cây chuối cong gãy, chuồng gà xác xơ, đàn gà con ngơ ngác tìm mẹ. Cánh đồng trước nhà mênh mông một màu trắng đục, cơ man nào là lúa chìm sâu dưới nước. Ấy vậy mà cha vẫn ung dung vác cuốc ra đồng, nói trời này đi đào mấy con chuột về xào sả ớt “ngon phải biết”. Mẹ khoác tấm áo mưa sờn vai, lách qua mấy bờ tre hái ít rau muống non cho bữa cơm chiều. Chúng tôi - lũ trẻ con chân đất, tóc cháy nắng - ríu rít xua đàn gà, đàn vịt về tụm lại, cho chúng tìm hơi ấm của nhau. Tiếng gà con xao xác, nghe sao chua xót đến nhói lòng.
Năm nay, bão về dữ dội hơn. Một cơn cuồng phong kéo phăng tất cả. Nhà tôi ở vùng cao, ban đầu mẹ vẫn còn bình thản: “Chỗ ni cao ráo, nước mô mà lên được”. Nhưng rồi đê vỡ, nước từ sông trước nhà tràn trắng xóa, cuốn theo cả bờ rào và vườn rau. Tôi nghe nói có nhà trong xóm bị nước ùa vào nhanh quá, tủ lạnh còn chưa kịp di chuyển đã nổ tung. Chợ làng chắc chắn không họp, tôi hình dung mẹ thò tay vào hũ nhút, vắt từng sợi mít, thêm ít cà muối, đủ cho bữa cơm qua ngày. Gà vịt cũng chẳng ai dám làm thịt, bởi chúng là tài sản cuối cùng, khi nước lũ ào ào cuốn phăng mọi thứ thì vẫn còn hy vọng giữ lại đàn gia cầm ấy. Tôi không định nghĩa nổi hai chữ “bình an” trong những ngày như thế. Bình an, với mẹ, có lẽ chỉ là mái nhà còn đứng vững, người nhà còn nguyên vẹn. Dù ngập tới tận nóc, mẹ vẫn luôn bảo: “Không có chi mô con nờ, quê mình vẫn bình an”. Một câu nói quen thuộc để trấn an những đứa con xa quê, để chúng bớt dằn vặt mà bỏ dở công việc, bớt nôn nóng trở về giữa lúc hiểm nguy. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi lần mưa gió, chúng tôi lại được cha dắt lên đồi phía sau nhà, nơi có những cây sim già mọc thành từng bụi, chờ qua cơn bão mới trở về. Trên đồi, ngồi trong căn chòi nhỏ, tôi thường lặng nghe tiếng mưa đập ràn rạt lên mái lá, tiếng sấm ầm ì vọng từ phía chân trời xa. Có những đêm gió thổi lồng lộng, tôi thấy cha ngồi trầm ngâm bên ngọn đèn dầu, ánh mắt sâu hun hút. Mẹ ôm mấy anh em tôi trong tấm chăn dày, hương mồ hôi và mùi đất ẩm quyện thành thứ mùi ký ức mà đến giờ tôi vẫn nhớ.
Sau bão, cảnh vật quê nhà tan hoang như vừa qua một cuộc chiến. Cánh đồng trắng xóa, làng mạc xác xơ. Người người lội nước, vớt vát từng bó lúa, từng con gà, con vịt trôi dạt. Tiếng khóc xen lẫn tiếng gọi nhau thất thanh. Ấy thế mà khi chiều xuống, mọi người vẫn nhóm bếp, khói bếp tỏa lên hòa cùng mùi bùn non ngai ngái, như một hơi ấm mong manh xua đi giá lạnh. Bão lũ cuốn đi nhiều thứ: mùa màng, của cải, cả những mái nhà, đôi khi là mạng sống của người thân. Nhưng không cuốn đi được tình thương của người quê dành cho nhau. Trong ký ức tôi, những ngày sau bão, cả xóm lại chung tay dựng lại từng mái nhà, chia nhau từng bát gạo, bó rau. Người mất nhiều thì được giúp nhiều, người mất ít san sẻ lại cho hàng xóm. Lòng người quê như mạch nước ngầm, càng đào sâu càng trong vắt, ngọt lành.
Có những đêm tôi nằm giữa phố thị, chợt nhớ về ánh trăng rằm quê nhà. Trăng tháng Tám dát vàng những lối mòn, hắt xuống mặt sông lấp loáng. Tôi nhớ tấm lưng mẹ lúc chiều hôm, lội bì bõm dưới dòng sông, vớt lại từng mảnh phên trôi. Nhớ tiếng cha cười hiền lành, bảo rằng “bão qua rồi, mai lại ra đồng, nước rút đi sẽ thấy lúa lại trồi lên thôi”. Ký ức ấy cứ len lỏi trong tôi như một dòng chảy ngầm, dịu dàng mà dai dẳng, đưa tôi ngược về những ngày xưa bình yên ít ỏi. Giờ này, ở quê, nước vẫn còn ngập. Bao nhiêu mái nhà bị cuốn trôi, bao nhiêu gia đình ly tán… chẳng ai đếm xuể. Tôi ngồi nơi đây, lòng quặn thắt. Giữa phố thị đèn sáng lóa, tôi vẫn nghe tiếng gió quật, tiếng mái tôn kêu răng rắc, tiếng gà con xao xác tìm mẹ. Một nỗi khắc khoải len vào từng nhịp thở…
Và giữa tất cả những điều ấy, tôi vẫn nghe giọng mẹ dịu dàng: “Không có chi mô con nờ, quê mình vẫn bình an”. Lời nói ấy như một phép màu, vừa xót xa vừa an ủi. Có lẽ mẹ cũng như bao người quê khác, dẫu bão tố vần vũ, lòng vẫn một niềm tin rằng ngày mai, mặt trời sẽ lại lên và quê hương mình sẽ hồi sinh sau bão lũ.
Thụy