Những động lực của công cuộc đổi mới lần hai
Từ quốc gia nghèo nàn, lạc hậu bước ra khỏi chiến tranh, Việt Nam hiện là đối tác với gần 200 quốc gia trên thế giới, đồng thời cũng trở thành quốc gia có thu nhập trung bình và đang hướng tới đích thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.
Ngày mùng 2/9 năm nay không chỉ đánh dấu nước Việt Nam tròn 80 tuổi, mà còn là dấu mốc sau hành trình 40 năm đổi mới.
Sau 80 năm đi trên hành trình của kỷ nguyên độc lập – tự do và qua 40 năm đổi mới, từ một nước nghèo, chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh, Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Để tiến tới mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045, nhiều chuyên gia nhận định: Việt Nam sẽ bước vào công cuộc đổi mới lần hai với những động lực đến từ kinh nghiệm đổi mới lần một cùng với thế và lực của Việt Nam trong thời kỳ mới.
Năm 1986, Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới trong bối cảnh nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, lạm phát lên tới 453,5%. Đảng đã lãnh đạo cuộc cách mạng về đổi mới. Trong đó, cơ chế bao cấp chuyển kinh tế nhiều thành phần. Năm 1987, Luật Công ty ra đời, mở đường cho khu vực tư nhân. Sau 40 năm, từ mức 150 USD/người/năm, thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên 4.700 USD vào năm 2024.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho hay: “Cơ chế kinh tế thị trường là một trong những điều quan trọng bậc nhất của công cuộc đổi mới. Chính nhờ đó mà Việt Nam thoát nghèo, trở thành một trong những nước như hiện nay.”
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặt mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam phấn đấu trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để đạt mục tiêu này, Đảng ban hành bốn Nghị quyết, còn gọi là bộ tứ trụ cột, gồm:
1. Nghị quyết số 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia;
2. Nghị quyết số 59 về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới;
3. Nghị quyết số 68 về phát triển kinh tế tư nhân;
4. Nghị quyết số 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Các chuyên gia cho rằng, bộ tứ trụ cột, cùng với công cuộc “Sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị” chính là nền tảng cho cuộc đổi mới lần hai.
TS. Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế và Chính trị Việt Nam, nhận định: “Thứ nhất, 40 năm đổi mới đã tạo tiền đề, nền tảng. Thêm vào đó, ta có vị trí địa chính trị, thế mới, giúp chúng ta thu hút nguồn vốn đầu tư, thương mại trao đổi về công nghệ cũng như những tiến bộ nhanh về mặt công nghệ. Thứ hai, Chính phủ đưa ra tứ trụ thể chế là nền tảng để ta đạt mục tiêu thành nước phát triển.”
Việt Nam chỉ còn 20 năm để trở thành nước phát triển thu nhập cao. Thời gian ngắn, nhiệm vụ lớn, để mục tiêu này thành công, các chuyên gia cũng hết sức lưu ý: Cần huy động sức của doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp tư nhân.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan chia sẻ thêm: “Điều đáng lo nhất là bộ máy bên dưới có theo kịp hay không những yêu cầu mà cấp trên đã đưa ra? Nếu mà làm được điều đó thì tôi tin là nền kinh tế có thể phát triển vượt bậc. Và chúng ta từ nước thoát nghèo, thì sẽ đạt mức thu nhập trung bình cao và từ đó vươn lên ngưỡng giàu.”
Các chuyên gia đánh giá, nếu động lực của đổi mới lần một là nông nghiệp – công nghiệp – gia công lắp ráp thì động lực của đổi mới lần 2 là khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ước tính, trong mức tăng trưởng GDP trên 10% của những năm tới, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sẽ góp 5 điểm phần trăm. Điều này đòi hỏi đầu tư ngân sách thích đáng cũng như một không gian rộng mở cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.