Ngoại giao Việt Nam – 80 năm chặng đường vẻ vang
Kỷ niệm 80 năm ngành Ngoại giao (1945-2025), Phó Thủ tướng – Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã có bài viết điểm lại hành trình 80 năm ngoại giao Việt Nam gắn liền với đấu tranh, bảo vệ và phát triển đất nước. Đài Hà Nội xin giới thiệu nội dung bài viết.

Ra đời vào Tháng Tám mùa thu lịch sử năm 1945, ngành ngoại giao Việt Nam vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất – trực tiếp sáng lập và đặt nền móng. Suốt 80 năm xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự dìu dắt của Người, cùng vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên, ngoại giao Việt Nam luôn giữ vững bản lĩnh cách mạng, phát huy truyền thống vẻ vang, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đóng góp vào những thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Ngoại giao đã để lại dấu ấn trong từng giai đoạn lịch sử, từ giành và giữ độc lập, kháng chiến chống thực dân, đế quốc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Ngoại giao trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước
Ngay từ khi ra đời, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi trọng vai trò ngoại giao như một phương thức quan trọng bảo vệ lợi ích dân tộc. Người từng nói: “Dùng binh giỏi nhất là đánh bằng mưu, thứ hai là đánh bằng ngoại giao, thứ ba mới đánh bằng binh”. Trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, ngoại giao góp phần quan trọng vào những thắng lợi vẻ vang: từ việc giữ vững độc lập những ngày đầu chính quyền cách mạng, đến kháng chiến chống thực dân, đế quốc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, và sau đó là xây dựng Tổ quốc.
Trong giai đoạn bảo vệ nền độc lập non trẻ (1945-1946), khi vận nước đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, “thù trong giặc ngoài”, ngoại giao đã giữ vai trò tiên phong, góp phần bảo toàn chính quyền nhân dân, kéo dài thời gian củng cố lực lượng cho kháng chiến trường kỳ. Thắng lợi nổi bật là Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, Tạm ước 14/9/1946, cùng nỗ lực tại các Hội nghị Đà Lạt và Fontainebleau. Ngoại giao khi đó đã ứng xử khéo léo với năm nước lớn, đối phó bốn đạo quân nước ngoài với trên 30 vạn binh lính hiện diện trên lãnh thổ Việt Nam. Đây được coi là một nước cờ ngoại giao xuất sắc, đưa đất nước vào thế tối ưu trong bối cảnh ngặt nghèo.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), ngoại giao vừa phục vụ chiến trường vừa tích cực phá thế bao vây, cô lập; mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh thủ ủng hộ và chi viện quốc tế. Ngoại giao góp phần hình thành liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia; thúc đẩy Trung Quốc, Liên Xô và nhiều nước xã hội chủ nghĩa công nhận, đặt quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam, tạo hậu phương quốc tế vững chắc. Phối hợp cùng mặt trận quân sự, ngoại giao đã phát huy thắng lợi, đặc biệt là chiến thắng Điện Biên Phủ, để đẩy mạnh đấu tranh trên bàn hội nghị, buộc các cường quốc ký Hiệp định Geneva, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định Geneva đã xóa bỏ hoàn toàn ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân gần 100 năm, khẳng định các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, tạo cơ sở chính trị – pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam sau này.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), trong hoàn cảnh “lấy yếu thắng mạnh”, ngoại giao trở thành “mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược”. Ngoại giao tranh thủ sức mạnh của ba dòng thác cách mạng, củng cố liên minh chiến đấu với Lào và Campuchia; nhận được sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc cùng phong trào quốc tế rộng rãi ủng hộ Việt Nam. Câu nói của Chủ tịch Fidel Castro: “Vì Việt Nam, nhân dân Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình” đã trở thành biểu tượng của tình đoàn kết quốc tế. Ngoại giao khéo léo kết hợp chính trị, quân sự, tạo thế trận “vừa đánh vừa đàm”, với đỉnh cao là Hiệp định Paris năm 1973, buộc Mỹ rút toàn bộ quân và vũ khí khỏi miền Nam, thay đổi cục diện chiến trường, tạo thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong giai đoạn tái thiết, xây dựng và phát triển sau chiến tranh (1975-1986), ngoại giao là lực lượng nòng cốt, tiên phong trong đưa đất nước thoát khỏi thế bị cô lập chính trị, bao vây, cấm vận kinh tế. Sau ngày 30/4/1975, ngoại giao tiếp tục làm rõ tính chính nghĩa của nhiệm vụ quốc tế cao cả: giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot; đồng thời phá thế bao vây, cấm vận, góp phần đưa đất nước vượt qua khó khăn kinh tế – xã hội. Việt Nam kiên trì khôi phục quan hệ láng giềng với Trung Quốc, các nước ASEAN; đấu tranh chống cấm vận của Mỹ; mở rộng quan hệ với các nước không liên kết, dân tộc chủ nghĩa và từng bước thiết lập quan hệ với các nước phát triển, tổ chức quốc tế. Đây cũng là giai đoạn Việt Nam trở thành thành viên của Phong trào Không liên kết (1976), Liên hợp quốc (1977).
Ngoại giao trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế

Trong thời kỳ Đổi mới (1986 đến nay), ngoại giao giữ vai trò tiên phong, đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, mở ra cục diện đối ngoại thuận lợi cho xây dựng và phát triển đất nước. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia – dân tộc là kết tinh của quá trình đổi mới, mở cửa, đã đạt được “những kết quả quan trọng, có ý nghĩa lịch sử”.
Những năm đầu Đổi mới, trong bối cảnh đất nước khó khăn về kinh tế – xã hội, lại bị các thế lực thù địch chống phá, ngoại giao đã chủ động triển khai nhiều biện pháp: thúc đẩy giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, giải quyết hiệu quả vấn đề “thuyền nhân”, qua đó giảm sức ép, khôi phục đối thoại và cải thiện quan hệ với các nước lớn, các nước trong khu vực, tạo thế thuận lợi mới cho giai đoạn đa phương hóa, đa dạng hóa tiếp theo.
Từ thập niên 1990, thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa, Việt Nam mở rộng, nâng cấp, nâng tầm quan hệ với các đối tác, nhất là láng giềng, nước lớn và các đối tác quan trọng. Từ một đất nước bị bao vây, cô lập, đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 194 nước, thiết lập mạng lưới 37 đối tác toàn diện trở lên, trong đó có đầy đủ 5 Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ ASEAN, toàn bộ G7, 18/20 nền kinh tế G20, đồng thời là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế.
Việc nâng tầm quan hệ với các đối tác chủ chốt đã tạo nên tầm vóc chiến lược mới, đưa hợp tác đi vào chiều sâu, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững, mở ra cục diện đối ngoại thuận lợi hơn bao giờ hết cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với quốc phòng, an ninh, ngoại giao góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Các vấn đề biên giới với các nước liên quan từng bước được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác; thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực. Ngoại giao cũng đấu tranh hiệu quả với hoạt động vi phạm chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên biển; thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết các vấn đề tồn tại; thực hiện DOC và tham gia xây dựng COC thực chất, hiệu quả, phù hợp luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982. Ngoại giao còn tích cực tham gia đấu tranh trong các lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc, góp phần giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Ngoại giao đa phương nâng cao vai trò, vị thế Việt Nam, khẳng định đất nước là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Việt Nam gia nhập ASEAN, APEC, WTO và từng bước chuyển biến về chất: từ gia nhập, tham gia đến chủ động, tích cực đóng góp thực chất tại các diễn đàn quốc tế. Chúng ta tham gia khởi xướng, định hình nhiều cơ chế hợp tác mới như ASEM, ADMM+... Thực hiện Chỉ thị 25 của Ban Bí thư, Việt Nam chuyển từ “tham dự” sang chủ động phát huy vai trò “thành viên có trách nhiệm”, hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế, tham gia xây dựng “luật chơi” tại các diễn đàn khu vực và toàn cầu: Hội đồng Bảo an, Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Kinh tế – Xã hội LHQ, UNESCO, các cơ chế tiểu vùng Mê Công, Phong trào Không liên kết, Tổ chức Pháp ngữ… Việt Nam cũng mở rộng đóng góp vào gìn giữ hòa bình LHQ, cứu hộ cứu nạn quốc tế. Đến nay, chúng ta đã hai lần đảm nhiệm Ủy viên không thường trực HĐBA (2008-2009, 2020-2021), hai lần là thành viên Hội đồng Nhân quyền (2014-2016, 2023-2025), tham gia 6/7 cơ chế điều hành then chốt của UNESCO.
Ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển phát huy vai trò là động lực quan trọng của kinh tế – xã hội, hiện thực hóa mục tiêu phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Từ một đất nước lạc hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh, Việt Nam nay vươn lên mạnh mẽ, nằm trong nhóm 32 nền kinh tế hàng đầu về GDP. Hội nhập quốc tế đã chuyển từ kinh tế đơn thuần sang toàn diện, sâu rộng. Đến nay, Việt Nam có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia, vùng lãnh thổ; ký kết, triển khai 17 FTA, trong đó nhiều FTA thế hệ mới. Thực hiện Chỉ thị 15 của Ban Bí thư về ngoại giao kinh tế, đối ngoại đã huy động nhiều nguồn lực quan trọng như FDI, ODA, đưa Việt Nam gia nhập nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất, trở thành điểm đến hàng đầu của đầu tư quốc tế; là mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế với hơn 500 hiệp định song phương, đa phương; đồng thời vận động các đối tác lớn trong lĩnh vực mới như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Các lĩnh vực đối ngoại khác tiếp tục triển khai hiệu quả, toàn diện. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện tốt chính sách của Đảng, Nhà nước đối với gần 6 triệu kiều bào, củng cố đại đoàn kết dân tộc, huy động nguồn lực phát triển với hàng nghìn dự án đầu tư, hàng tỷ USD kiều hối mỗi năm. Công tác bảo hộ công dân bảo vệ an ninh, an toàn, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt tại vùng chiến sự, thiên tai, bất ổn. Công tác thông tin đối ngoại quảng bá mạnh mẽ hình ảnh đất nước, con người, thành tựu đổi mới; ngoại giao văn hóa vận động UNESCO công nhận 72 di sản, danh hiệu, góp phần gìn giữ giá trị văn hóa dân tộc và huy động nguồn lực cho phát triển địa phương.
Nhìn lại 80 năm, thành tựu đối ngoại là kết quả lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thế hệ lãnh đạo. Đồng thời, có đóng góp to lớn của nhiều nhà ngoại giao xuất sắc như Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Xuân Thủy, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Cơ Thạch… – những biểu tượng bản lĩnh, trí tuệ của ngoại giao Việt Nam. Đối ngoại trở thành nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, phát huy đồng bộ các trụ cột: ngoại giao nhà nước kết hợp đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân; ngoại giao nghị viện bổ trợ cho ngoại giao nhà nước; đối ngoại quốc phòng, công an triển khai tích cực; đối ngoại địa phương bổ sung cho đối ngoại Trung ương.
Bên cạnh thành tựu, công tác đối ngoại còn hạn chế: tranh thủ yếu tố thuận lợi quốc tế chưa hiệu quả; khuôn khổ quan hệ đã thiết lập chưa được khai thác triệt để, nhất là kinh tế – thương mại, quốc phòng – an ninh, khoa học – công nghệ; việc thực hiện thỏa thuận quốc tế còn bất cập; nghiên cứu, tham mưu đôi lúc chưa kịp thời. Nguyên nhân có yếu tố khách quan do tình hình thế giới biến động khó lường, song chủ yếu xuất phát từ năng lực trong nước còn hạn chế.
Những thành tựu và hạn chế đó để lại nhiều bài học: đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên cao nhất; giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, thống nhất của Đảng; nhạy bén trong nhận định, quyết đoán trong chính sách; kết hợp nội lực với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; huy động sự ủng hộ to lớn của nhân loại tiến bộ. Đặc biệt, kiên định nguyên tắc nhưng linh hoạt sách lược, “dĩ bất biến ứng vạn biến”, đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 3 (1964): ngoại giao “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ”.
Phát huy vai trò “tiên phong, trọng yếu, thường xuyên” trong kỷ nguyên mới
Trong những năm tới, tình hình thế giới được dự báo tiếp tục diễn biến khó lường, phức tạp. Cục diện quốc tế sẽ vận động theo hướng đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc với nhiều chuyển động sâu rộng về chính trị, an ninh, kinh tế, quân sự, khoa học – công nghệ. Các xung đột cục bộ, tranh chấp biên giới, lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên nhiều khả năng tiếp diễn với tính chất đa chiều hơn, diễn ra ở không gian mới với hình thái đa dạng. Kinh tế thế giới được dự báo tăng trưởng thiếu ổn định do căng thẳng địa chính trị; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, toàn diện, kéo theo sự phân tuyến rõ nét trên nhiều lĩnh vực, tác động trực tiếp đến lợi ích an ninh, phát triển của các quốc gia.
Trong nước, giai đoạn sắp tới có ý nghĩa bản lề, nước rút để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đến năm 2030, tầm nhìn 2045, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Sự biến chuyển của thời đại đem đến cả thời cơ, thuận lợi mới và nhiều thách thức. Điều đó đòi hỏi những quyết sách mang tính cách mạng.
Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ngoại giao Việt Nam phải vươn lên tầm cao mới, hoàn thành những trọng trách vinh quang mới, xứng đáng là đội quân tiên phong, binh chủng hợp thành của cách mạng Việt Nam”. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV cũng khẳng định: “Tăng cường quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”.

Thấm nhuần tư tưởng đó, ngoại giao Việt Nam sẽ phát huy những bài học xuyên suốt 80 năm cách mạng, không ngừng đổi mới tư duy phù hợp bối cảnh mới, chủ động, tích cực góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược của đất nước. Các phương hướng quan trọng là:
Thứ nhất, phát huy vai trò tiên phong, “trọng yếu, thường xuyên” trong tạo lập và củng cố cục diện đối ngoại thuận lợi; thực hiện ba mục tiêu chiến lược là an ninh, phát triển và vị thế quốc gia. Mục tiêu bao trùm là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích chính đáng của đất nước phù hợp luật pháp quốc tế; đồng thời góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao vai trò, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Điều này đòi hỏi ngoại giao phải nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa; đưa quan hệ với các đối tác, trước hết là láng giềng và các nước lớn, đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả; ưu tiên duy trì ổn định, tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác nhiều mặt, đồng thời xử lý khác biệt, kiểm soát bất đồng trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Thứ hai, đối ngoại phải là động lực kiến tạo, mở ra cơ hội mới cho đất nước, kết nối nội lực với ngoại lực; trong đó nội lực là cơ bản, lâu dài, ngoại lực là quan trọng, đột phá. Đây là các nguồn lực về thương mại, đầu tư, các xu thế phát triển, liên kết kinh tế; là trật tự thế giới đa cực, đa trung tâm dựa trên luật pháp quốc tế; là sức mạnh của kỷ nguyên khoa học – công nghệ, kinh tế tri thức. Bài học từ nhiều quốc gia cho thấy, trong giai đoạn bứt phá, nhiệm vụ của đối ngoại là định vị đất nước ở vị thế tối ưu trong các trào lưu phát triển lớn của thế giới; kết nối hợp tác với các đối tác hàng đầu trong lĩnh vực chiến lược như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn… Như Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, ngoại giao kinh tế, ngoại giao công nghệ “phải là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn phát triển mới, trở thành động lực để phát triển đất nước nhanh và bền vững”; đồng thời triển khai hiệu quả chủ trương hội nhập quốc tế, nhất là Nghị quyết 59 của Bộ Chính trị về hội nhập trong tình hình mới.
Thứ ba, nâng tầm đóng góp của Việt Nam đối với hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại. Với thế và lực mới, Việt Nam có điều kiện tham gia sâu hơn, trách nhiệm hơn vào giải quyết các vấn đề chung của thế giới. Chủ tịch nước Lương Cường nhấn mạnh: “Tương lai, vận mệnh của đất nước gắn liền với hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới”. Với cách tiếp cận mới – từ tiếp nhận sang đóng góp, từ học tập sang dẫn dắt – Việt Nam sẽ tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ trật tự quốc tế công bằng, bình đẳng dựa trên luật pháp quốc tế; không chỉ tham gia mà còn phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong các cơ chế quan trọng, phù hợp lợi ích và điều kiện của đất nước. Theo đó, Việt Nam sẽ đóng góp nhiều hơn trên các diễn đàn đa phương, đặc biệt là thúc đẩy sáng kiến mới; giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng Cộng đồng ASEAN, củng cố vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực; tham gia tích cực trong khuôn khổ Liên hợp quốc, nhất là thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và lực lượng gìn giữ hòa bình...
Thứ tư, phát huy “sức mạnh mềm” của dân tộc, gia tăng hình ảnh và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Trong kỷ nguyên mới, sức mạnh mềm không chỉ là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế – xã hội mà còn gắn kết Việt Nam với thế giới, vun đắp tình hữu nghị giữa các dân tộc. Ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại và công tác người Việt Nam ở nước ngoài là những kênh đắc lực xây dựng lòng tin, sự hiểu biết lẫn nhau, tạo dựng quan hệ tin cậy lâu dài, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của bạn bè quốc tế và kiều bào đối với sự nghiệp đổi mới.
Thứ năm, nâng cao chất lượng nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược trong hoạch định chính sách đối ngoại, góp phần làm sâu sắc nền tảng lý luận của Đảng về đối ngoại. Trong bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng, công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược giữ vai trò quan trọng để bảo đảm thế chủ động. Ngoại giao cần nhạy bén, nhận diện kịp thời xu hướng chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội trong khu vực và thế giới, nhất là tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; từ đó tranh thủ cơ hội, đánh giá đúng vận động chính sách và quan hệ giữa các nước, đặc biệt là láng giềng, nước lớn, để tham mưu quyết sách và bước đi đối ngoại phù hợp.
Thứ sáu, xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới. Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao nghị viện, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp cần đi vào chiều sâu, bền vững. Cùng với đó là bố trí nguồn lực thích đáng, bảo đảm cơ sở vật chất, hạ tầng, chế độ ngang bằng mặt bằng chung khu vực, từng bước tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế.
Đặc biệt, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, công tác cán bộ ngoại giao phải đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới. Thế hệ cán bộ đối ngoại cần không chỉ có trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, mà còn dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, ngày càng chuyên nghiệp, ngang tầm khu vực và quốc tế. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện nền tảng lý luận đối ngoại, xây dựng trường phái ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh trên cơ sở truyền thống lịch sử và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Sau 80 năm lập quốc và 40 năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đất nước đã đạt được những thành tựu lịch sử, làm rạng danh Việt Nam trên bản đồ thế giới. Trong mỗi chiến thắng vĩ đại của dân tộc đều in đậm dấu ấn ngoại giao. Bước vào kỷ nguyên mới, ngành ngoại giao Việt Nam nguyện nỗ lực viết tiếp trang sử vẻ vang của ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh, tận lực, tận tâm phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân; phát huy tinh thần tiên phong, chủ động, tích cực, góp phần đưa đất nước vững bước trên những nấc thang phát triển mới.