Tài sản trí tuệ cần được định giá công bằng
Khi tri thức trở thành tài sản và tài sản trí tuệ được định giá công bằng, nền kinh tế sáng tạo Việt Nam mới thực sự có nền tảng vững chắc để vươn lên trong kỷ nguyên AI và toàn cầu hóa.
Sáng 5/11, trong chương trình làm việc của Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội thảo luận tại tổ về dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ. Nhiều ý kiến tâm huyết cho rằng, đây là đạo luật “dẫn đường” cho nền kinh tế tri thức - nơi tài sản trí tuệ, sáng tạo văn hóa và tri thức bản địa trở thành nguồn lực phát triển bền vững của quốc gia.
Cần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về sở hữu trí tuệ
Đại biểu Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh, việc sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ lần này có ý nghĩa đặc biệt, nhằm cụ thể hóa các Nghị quyết của Trung ương như: Nghị quyết 57 về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân; và Nghị quyết 66 về hoàn thiện thể chế trong kỷ nguyên số.
Theo đại biểu, trọng tâm của lần sửa đổi này chính là chuyển từ tư duy “bảo hộ quyền” sang “khai thác giá trị” của tài sản trí tuệ, coi tri thức là động lực kinh tế và động lực phát triển quốc gia.

Để bảo đảm tính khả thi, đại biểu Lan đề nghị xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về sở hữu trí tuệ, đồng thời làm rõ tiêu chí, quy trình, cơ chế giám sát việc định giá, tránh tình trạng “thổi giá” hay “ảo hóa” tài sản. Đại biểu cũng kiến nghị cần có nghị định hướng dẫn cụ thể để các cơ sở có thể triển khai nhanh các chủ trương đổi mới sáng tạo.
Từ kinh nghiệm quốc tế, đại biểu dẫn chứng Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore đã có sàn giao dịch sở hữu trí tuệ và hệ thống định giá minh bạch, qua đó thúc đẩy mạnh mẽ thị trường đổi mới sáng tạo. Theo đại biểu, Việt Nam cũng nên học hỏi mô hình này để biến tài sản trí tuệ thành hàng hóa đặc biệt, góp phần hình thành thị trường tri thức quốc gia.
Đại biểu Nguyễn Thị Lan cũng đề nghị bổ sung cơ chế riêng về bảo hộ giống cây trồng được tạo ra bằng công nghệ sinh học hoặc chuyển gen, vì hiện dự thảo mới chỉ quy định chung. “Nếu không có quy định bảo hộ rõ ràng, chúng ta sẽ tụt hậu trong lĩnh vực công nghệ sinh học nông nghiệp”, đại biểu nói.
Đại biểu đề xuất công nhận kết quả khảo nghiệm quốc tế để rút ngắn thời gian cấp bằng, đồng thời ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật riêng cho giống công nghệ sinh học, nhằm bắt kịp xu hướng toàn cầu và khuyến khích nghiên cứu, đổi mới trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao.
Luật phải dẫn đường cho văn hóa số và kỷ nguyên AI
Đại biểu Bùi Hoài Sơn cho rằng, việc sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ diễn ra trong bối cảnh văn hóa không còn bó hẹp trên sân khấu hay trong trang sách, mà đã lan tỏa mạnh mẽ trên nền tảng số, được số hóa bằng dữ liệu và tái tạo bởi trí tuệ nhân tạo (AI).
“Mỗi thông tin, mỗi giai điệu, mỗi hình ảnh có thể lan khắp thế giới trong vài giây và cũng có thể bị đánh cắp, bóp méo hoặc khai thác trái phép trong vài giây”, đại biểu nói.

Từ đó, đại biểu Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh: Luật Sở hữu trí tuệ lần này phải trở thành "lá chắn văn hóa số", bảo vệ người sáng tạo và khẳng định chủ quyền văn hóa Việt Nam trong không gian mạng toàn cầu.
Về Điều 7 bổ sung liên quan đến hủy bỏ quyền phát sinh sau khi xâm phạm quyền trước, đại biểu Sơn cho rằng cần thiết lập cơ chế giải quyết khẩn cấp với tranh chấp nội dung số, vì “tốc độ là yếu tố sống còn trên không gian mạng”. Đại biểu đề nghị khuyến khích áp dụng các công nghệ xác thực như watermark, blockchain, content-ID, giúp xác định nguồn gốc và ngăn chặn sao chép trái phép.
Đặc biệt, đại biểu nhấn mạnh cần quy định rõ trách nhiệm của nền tảng số và nền tảng AI xuyên biên giới, gồm bốn nguyên tắc: gỡ bỏ nhanh nội dung vi phạm; ngăn chặn tái đăng tải; minh bạch dữ liệu huấn luyện AI và không thương mại hóa nội dung AI tạo ra nếu dựa trên tác phẩm chưa được cấp phép.
“Chúng ta không thể để nghệ sĩ Việt trở thành người cung cấp dữ liệu miễn phí cho AI nước ngoài; không thể để giá trị văn hóa bị hút đi như tài nguyên thô”, “và càng không thể để pháp luật đi sau công nghệ", đại biểu Bùi Hoài Sơn nói.
Đại biểu cũng đề nghị mở rộng định nghĩa “sản phẩm phi vật lý” trong Điều 4, bao gồm giọng nói số, phong cách biểu diễn, avatar hay nhân dạng số của nghệ sĩ, để ngăn chặn việc deepfake hoặc sao chép giọng nói, hình ảnh mà không xin phép.
Liên quan quy định tại khoản 2 Điều 7 về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, đại biểu đề nghị bổ sung phạm vi “bao gồm cả môi trường trực tuyến và nền tảng số”, đồng thời làm rõ trách nhiệm của nhà cung cấp nền tảng nhằm bảo vệ biểu tượng thiêng liêng của quốc gia trong thời đại thuật toán và AI quản trị nội dung.
Ở góc độ giám định, đại biểu Sơn cho rằng, việc sửa đổi Điều 201 về giám định sở hữu trí tuệ phải đi cùng yêu cầu năng lực giám định số, gồm nhận diện nội dung, phân tích AI, truy vết dữ liệu, xác định nguồn gốc tác phẩm. “Nếu không có công cụ công nghệ, giám định chỉ là lý thuyết, không thể xử lý thực tiễn tranh chấp bản quyền số”, đại biểu nhấn mạnh.
Bảo hộ tri thức bản địa trong dòng chảy hội nhập
Đại biểu Tạ Đình Thi nêu vấn đề sâu sắc về bảo hộ tri thức bản địa - một khía cạnh ít được đề cập nhưng rất quan trọng trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và phát triển kinh tế tư nhân.
Theo đại biểu, nhiều tri thức bản địa, giống cây trồng, bài thuốc dân gian hay quy trình canh tác truyền thống đã được hình thành qua hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm bởi cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp tư nhân khai thác và đăng ký quyền sở hữu, câu hỏi đặt ra là: lợi ích của cộng đồng bản địa được chia sẻ như thế nào?

“Giữa tri thức bản địa và quyền tư nhân hóa cần có ranh giới rõ ràng”, đại biểu nói. “Chính sách của Nhà nước phải đảm bảo vừa bảo tồn, vừa phát triển, không để tri thức của cộng đồng bị thương mại hóa một chiều”.
Đại biểu Tạ Đình Thi cũng nhấn mạnh, trong bối cảnh hội nhập, việc bảo vệ quyền sở hữu đối với tri thức bản địa không chỉ là bảo tồn văn hóa, mà còn gắn với quyền lợi kinh tế của cộng đồng. Đây là yêu cầu quan trọng để đảm bảo công bằng, phát triển bền vững và giữ gìn bản sắc Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa.














