Chờ tháng Mười để nhớ…
Tháng Mười – mùa của những cơn mưa nắng bất chợt, cũng là mùa của những nỗi nhớ nồng nàn. Ở đâu đó trong hương đất quê nhà, mùi vừng phơi nắng, mùi sắn luộc thơm bùi vẫn gợi về biết bao ký ức thân thương.
Những ngày tháng Mười, đất trời mưa nắng lẫn lộn. Cứ dăm ba bữa nắng thật chói chang lại đến những ngày mưa dầm dề xối xả. Người nông dân quê tôi chưa kịp thu hoạch đám vừng trên nương lại quay qua loay hoay nhổ sắn, cố gắng thuận theo những đổi thay chóng mặt của thời tiết. Trước ngày chuẩn bị thu hoạch nông sản, mẹ tôi lại lầm rầm cầu trời đến mai thời tiết thuận lợi, nắng mưa như ý.
Những thửa vừng trên nương đã già, lá, cây khô quắt lại. Nếu trời nắng, mẹ sẽ huy động tất cả nhân lực trong nhà cầm liềm, cầm tải lên nương thu hoạch. Cây vừng nhỏ xíu nhưng thu hoạch lại cần rất nhiều công sức. Mảnh đất nào vừng mọc lên chen chúc thì thu hoạch còn nhanh. Nhằm nơi cây mọc lưa thưa thì thu hoạch lâu vô cùng. Cũng là thao tác cầm liềm như gặt lúa nhưng thu hoạch vừng cần nhiều sức hơn vì phải cắt sát gốc. Mỗi lần cắt vừng tôi hay ngồi bệt hẳn xuống đất, lết từng đoạn một mới cắt được những cây vừng gọn ghẽ.
Mẹ tôi lúc ngồi, lúc khom lưng, lúc lại quỳ xuống nền đất. Có dạo, người dân làng tôi định rủ nhau không trồng vừng nữa vì năng suất của nó chẳng được là bao, lại tốn công chăm sóc. Nhưng có lẽ vì mọi người không thể quên được hương vị thơm thảo của những hạt vừng trong từng món ăn dân dã quê nhà, nên cây vừng vẫn cứ hiện diện như một người bạn của người nông dân quê tôi. Ở quê tôi, có lẽ ai cũng thích ăn món bánh đa vừng. Tôi thì vô cùng thích ăn bánh đa vừng kèm với cùi dừa. Còn món muối vừng lạc thì ăn với cơm. Nhớ những ngày mưa lạnh, xới bát cơm nóng, múc một thìa muối vừng lạc trải đều khắp bát cơm, tôi ăn miếng nào miếng nấy như bị thôi miên, thơm ngon vô cùng. Hạt vừng thơm thơm quyện với hạt lạc bùi bùi beo béo. Sau này lớn lên đi học xa nhà, mẹ vẫn thường làm cho tôi một lọ muốn vừng lạc để tôi mang lên phố ăn cho đỡ nhớ, đỡ thèm. Mỗi lần tôi về thăm nhà, thể nào mẹ cũng chạy ù ra đầu ngõ, mua cho tôi xâu bánh đa vừng để tôi ăn lót dạ trong lúc chờ mẹ nấu cơm.
Qua ngày nắng thu hoạch vừng lại tới ngày đi nhổ sắn. Những nương, những rẫy xôn xao tiếng nói cười của những người nông dân tảo tần. Đàn ông khỏe hơn thì giữ nhiệm vụ nhổ gốc, còn phụ nữ chân yếu tay mềm đi phát quang lá, cành xung quanh. Nhổ sắn cũng phải có cách để làm sao cho củ lúc lấy lên không bị gẫy. Đó đây, các chú, các anh lại khoe những nốt sần chai trên bàn tay gầy guộc. Họ kể cho nhau về kế hoạch của những sọt sắn sau khi thu hoạch. Người bán một phần để mua phân, mua giống cho vụ sau. Người lại có kế hoạch phơi khô để làm lương thực lâu dài cho đám gia súc gia cầm.
Tôi thì lại nhớ tới những mẻ bánh sắn thơm ngọt, bùi bùi. Đó chính là những tháng ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời tôi. Sắn sau khi thu hoạch về, tôi phụ ba mẹ bóc lớp vỏ ngoài, rửa thật sạch, ngâm qua nước muối. Sắn có thể phơi khô xay thành bột hoặc luộc lên nhào lấy bột làm bánh. Mẹ tôi thường luộc sắn, chờ nguội rồi ngào thành bột. Nhân có thể dùng dừa, lạc hoặc đậu xanh. Mang lên hấp cho nhân chín đều là có thể lấy xuống ăn. Những mẻ bánh cũng theo đôi vai gầy của mẹ quầy quả khắp các ngõ quê, chắt chiu từng đồng cho anh em tôi học hành. Thế nên, bánh sắn không chỉ là món ăn tuổi thơ mà còn chứa đựng cả những ân tình của trời đất, của mẹ cha, nuôi nấng cả gia đình tôi từ thuở hàn vi.
Thời gian cứ thế trôi đi, tôi đã trải qua bao nhiêu mùa tháng Mười với những mùa vừng đi, sắn tới. Tôi trưởng thành, lên phố lập nghiệp, thời gian cũng đưa ba mẹ tôi trở thành người thiên cổ. Những nương, những rẫy giờ đây không còn thấy ai trồng vừng hay sắn nữa mà thay vào đó là những cây cho kinh tế cao hơn. Nhưng dù năm tháng trôi đi, tôi vẫn chẳng thể nào nguôi ngoai nỗi nhớ, hình dáng của mẹ, của những người nông dân tần tảo, của niềm vui khi nhận lấy thành quả lao động. Và mỗi khi tháng Mười về, nỗi nhớ ấy trong tôi lại càng da diết…
Mai Thị Trúc