Chiếc áo của cha
Người ta bảo, mùa đông năm nay sẽ đến sớm hơn. Chỉ nghe vậy thôi, trong lòng tôi chợt ùa về biết bao miền ký ức cũ: về những cuộn len mẹ luôn mang theo suốt bốn mùa và về chiếc áo của cha...
Mấy hôm nay, tiết trời Hà Nội cứ đứng lưng chừng giữa hai mùa. Buổi sớm, cái se lạnh khẽ chạm vai, khiến ai cũng muốn níu thêm một chút ấm áp. Vậy mà đến trưa, nắng cuối thu lại vàng lên rực rỡ như chưa từng có gió lạnh lẩn khuất đâu đây. Người ta bảo, mùa đông năm nay sẽ đến sớm hơn. Chỉ nghe vậy thôi, trong lòng tôi chợt ùa về biết bao miền ký ức cũ: về những cuộn len mẹ luôn mang theo suốt bốn mùa và về chiếc áo của cha - chiếc áo đã đi cùng tuổi thơ, đi cùng những mùa đông buốt giá của Hà Nội những năm tháng thiếu thốn.
Trong tủ quần áo nhà tôi, có một chiếc áo vẫn được treo ngay ngắn ở vị trí trang trọng nhất, dù chủ nhân của nó - cha tôi đã rời xa từ lâu. Đó là chiếc áo được may từ một chiếc chăn chiên màu xám, thứ chăn mua từ thời bao cấp. Chỉ cần nhìn nó, bao mùa đông cũ lại ùa về, rõ đến mức như mình đang đứng giữa cái lạnh thấu da thịt ngày nào.
Đó là những năm tháng Hà Nội thiếu đủ bề: thiếu gạo, nên bát cơm xới lên chẳng bao giờ đầy; thiếu thịt cá, khiến bữa cơm gia đình đôi khi chỉ có rau muối mà vẫn chan chứa yêu thương; và thiếu quần áo ấm - điều khiến cái lạnh như chạm đến tận sâu thẳm. Những bữa cơm ngày đông, cả nhà quây quần quanh mâm, vừa ăn vừa xuýt xoa, trú vào hơi ấm từ bát cơm trắng đang còn tỏa khói.
Tôi còn nhớ những buổi sáng đạp xe qua cầu Long Biên để đến trường. Gió từ sông Hồng thốc lên, luồn qua găng tay len, xuyên vào từng lớp quần áo mỏng. Ngón tay buốt lại, ngón chân tê dại… ai nấy đều co ro, khép mình trong đủ những kiểu áo: áo len cổ lọ, áo bông, áo trấn thủ, khăn bông quàng kín đến nửa mặt. Chỉ để hở hai con mắt cho gió lùa. Nhưng lạ thay, mùa đông thời ấy - dù khắc nghiệt - vẫn là thứ người ta mong chờ. Bởi nó là mùa của những tấm lòng.
Hà Nội khi đó, đi đến đâu cũng thấy hình ảnh quen thuộc: những bà, những mẹ, những chị tranh thủ từng khoảng thời gian nhỏ nhất, đôi kim đan thoăn thoắt trên tay. Mỗi mũi len không chỉ là mũi đan, mà là tình yêu, là sự lo toan dành cho chồng, con. Một chiếc khăn len tiễn người yêu ra trận; một đôi găng tay ấm áp theo người trẻ lên công trường; một chiếc áo len cùng du học sinh sang xứ lạ;... những món đồ bình dị ấy đã vượt ra ngoài giá trị vật chất, trở thành thứ ký ức thiêng liêng của một thời gian lao nhưng nồng ấm nghĩa tình.
Với mẹ tôi, đôi kim đan còn theo suốt đến những đêm khuya, dưới ánh đèn dầu leo lét những tối cúp điện. Tan ca xưởng, mẹ lại tranh thủ thêu thùa ở tổ đan len của khu phố để kiếm thêm bó rau, cân muối nuôi chúng tôi khôn lớn. Phụ nữ Hà Nội ngày ấy gần như ai cũng biết đan - một thứ tri thức truyền tay nhau, chẳng cần sách vở nhưng đã nuôi dưỡng biết bao gia đình.
Hà Nội bây giờ không còn cái lạnh cắt da như xưa nữa: một phần vì biến đổi khí hậu, một phần vì cuộc sống đã đủ đầy hơn; con người ấm hơn, mạnh hơn. Quần áo không chỉ để mặc - mà còn đẹp, còn thời trang, nhẹ tênh và tiện dụng. Không còn ai phải khoác lên mình một chiếc áo nặng như “gánh đôi thùng nước” - như chiếc áo may từ chăn chiên của cha tôi. Nhưng mỗi lần chạm vào nó - chiếc áo cũ xù lông, nặng trĩu, thấm mùi thời gian - lòng tôi lại thắt lại. Bởi đó không chỉ là chiếc áo, mà đó còn là mùa đông của một thời Hà Nội gian khó, là bàn tay mẹ và bóng dáng cha, là tuổi thơ của những đứa trẻ lớn lên trong thiếu thốn nhưng đầy tình yêu thương.
Đôi khi tôi tự hỏi: khi trái đất ngày càng nóng lên, khi những mùa rét trở nên ngắn lại, mong manh hơn, liệu mai sau con cháu chúng ta có còn được cảm nhận trọn vẹn bốn mùa Hà Nội nữa hay không?
Tôi mong, mùa đông vẫn sẽ trở về - dù muộn hay sớm - để những đứa trẻ sau này cũng được xúng xính trong những chiếc áo chần bông đỏ mỗi độ Tết về - thứ áo mà ngày xưa lũ trẻ chúng tôi từng ao ước đến cháy lòng.
Trần Minh














